Khá nhiều người thắc mắc về việc bên cho thuê nhà mang giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đi thế chấp vay tiền ngân hàng. Trong tình huống này, luật sư tư vấn như sau.
Quy định về thế chấp nhà ở đang cho thuê được quy định tại Điều 146 Luật Nhà ở năm 2014 như sau:
"Điều 146. Thế chấp nhà ở đang cho thuê
1. Chủ sở hữu nhà ở có quyền thế chấp nhà ở đang cho thuê nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê nhà ở biết trước về việc thế chấp. Bên thuê nhà ở được tiếp tục thuê đến hết hạn hợp đồng thuê nhà ở.
2. Trường hợp nhà ở đang thuê bị xử lý để thực hiện nghĩa vụ của bên thế chấp nhà ở thì bên thuê nhà ở được tiếp tục thuê đến hết hạn hợp đồng, trừ trường hợp bên thuê nhà ở vi phạm các quy định tại khoản 2 Điều 132 của Luật này hoặc các bên có thỏa thuận khác".
|
Trên thị trường không hiếm trường hợp bên cho thuê nhà mang
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đi thế chấp vay tiền ngân hàng |
Trong trường hợp này, việc đầu tiên là bạn cần xác định chủ nhà khi thế chấp giấy tờ nhà có thông báo cho người thuê nhà không. Nếu không thông báo, người thuê có quyền đòi bồi thường do chủ nhà đã vi phạm quy định của pháp luật.
Căn cứ theo Điều 146 Luật Nhà ở năm 2014, khi căn nhà đang thuê bị xử lý để thực hiện nghĩa vụ của bên thế chấp thì người thuê nhà vẫn được tiếp tục thuê cho đến khi hợp đồng hết hạn, trừ trường hợp giữa các bên có thỏa thuận khác hoặc bên thuê nhà vi phạm các quy định về nghĩa vụ của bên thuê.
Nếu bên nhận thế chấp cưỡng ép bên thuê nhà ra khỏi nhà thì các bên có thể tự thỏa thuận. Trong trường hợp không thể thỏa thuận và bên nhận thế chấp gây khó dễ cho bên thuê nhà thì bên thuê nhà có thể khởi kiện vì hành vi cản trở trái pháp luật với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác với tài sản như Điều 169 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định. Cụ thể, Điều 169 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định như sau:
"Điều 169. Quyền yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản
Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản, chủ thể có quyền yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó hoặc có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm".
Luật sư Nguyễn Thanh Hà
Chủ tịch Công ty Luật SBLaw