Bộ Xây dựng hướng dẫn Ngân hàng Chính sách xã hội về việc xác định tuổi thọ từng loại công trình mà người vay vốn để thuê mua, mua nhà ở xã hội hoặc để xây mới, sửa chữa, cải tạo nhà ở.
Tuổi thọ công trình xây dựng được xác định trên cơ sở độ bền vững của công trình
và do chủ đầu tư quyết định khi xác định nhiệm vụ thiết kế xây dựng công trình.
Cụ thể như sau:
Theo quy định tại Mục 1.5.21 của QCVN 03:2012/BXD - Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về nguyên tắc phân cấp, phân loại công trình dân dụng, công trình công nghiệp và hạ tầng kỹ thuật đô thị, tuổi thọ công trình là khả năng của công trình xây dựng bảo đảm các tính chất cơ lý và các tính chất khác được thiết lập trong thiết kế và bảo đảm điều kiện sử dụng bình thường trong suốt thời gian khai thác vận hành.
Mục 2.2.1.8 của QCVN 03:2012/BXD quy định, tuổi thọ công trình xây dựng được xác định trên cơ sở độ bền vững của công trình:
- Bậc I: Niên hạn sử dụng trên 100 năm
- Bậc II: Niên hạn sử dụng từ 50 năm đến 100 năm.
- Bậc III: Niên hạn sử dụng từ 20 năm đến dưới 50 năm.
- Bậc IV: Niên hạn sử dụng dưới 20 năm.
Khoản 4 Điều 80 và Điểm b Khoản 2 Điều 85 Luật Xây dựng cùng Khoản 15 Điều 3 Nghị định số 46/2015/NĐ-CP ngày 12/5/2015 của Chính phủ về quản lý chất lượng, bảo trì công trình xây dựng quy định, tuổi thọ công trình do chủ đầu tư quyết định khi xác định nhiệm vụ thiết kế xây dựng công trình.
Đối với tuổi thọ công trình nhà ở xã hội:
Điều 55 Luật Nhà ở số 65/2014/QH13 quy định rằng, nhà ở xã hội là nhà chung cư hoặc nhà ở riêng lẻ phù hợp với quy hoạch chi tiết xây dựng được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và phải được thiết kế xây dựng bảo đảm quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng, diện tích của nhà ở xã hội.
Với mỗi dự án nhà ở xã hội cụ thể (gồm dự án chung cư hoặc dự án nhà ở liền kề thấp tầng), tuổi thọ của công trình đã được xác định trong dự án đầu tư xây dựng theo quy định của Luật Xây dựng.
Trong khi đó, đối với nhà ở riêng lẻ do cá nhân, hộ gia đình xây dựng mới hoặc sửa chữa, cải tạo nhà ở của mình, số liệu Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ thời điểm năm 2014 của Tổng cục Thống kê cho thấy, tỷ trọng nhà ở thiếu kiên cố và nhà đơn sơ tại khu vực đô thị trên cả nước chỉ khoảng 3,5%, Hà Nội là khoảng 0,1%, Tp.HCM khoảng 1%, tỷ trọng này có xu hướng tiếp tục giảm trong những năm tiếp theo.
Trên thực tế, nhà ở riêng lẻ của hộ gia đình tại khu vực đô thị chủ yếu là nhà ở kiên cố và bán kiên cố.