Vào ngày 16/5/2016, Trung tâm thương mại Parkson Paragon đóng cửa để di dời sau 5 năm hoạt động. Sự rút lui của nhà bán lẻ hàng hiệu am hiểu thị trường hơn một thập niên qua như Parkson đang dấy lên lo ngại nguy cơ bão hòa thị trường cũng như thừa nguồn cung mặt bằng bán lẻ tại khu Nam Tp.HCM nói riêng và cả TP nói chung.
Tuy không có được vị trí đắc địa ngay trung tâm TP, Parkson Paragon lại khá nổi bật trong tổng thể khu Phú Mỹ Hưng, nằm trên mặt tiền đường Nguyễn Lương Bằng thuộc trung tâm tài chính của đô thị này. Thế nhưng, lợi thế đó ngày càng mờ nhạt khi Parkson đang phải chia sẻ miếng bánh thị trường với rất nhiều nhà bán lẻ có mô hình kinh doanh, hàng hóa đa dạng, phong cách phục vụ ấn tượng hơn quanh khu Nam và rộng khắp Sài Gòn.
Năm 2011, Parkson chính thức trở thành nhà quản lý trung tâm thương mại Saigon Paragon trong thời hạn 19 năm, đổi tên khu thương mại này thành Parkson Paragon. Song, sau 5 năm vận hành, khu mua sắm quy mô 19.000m2 đã dời đi trước thời hạn đầu tư 14 năm.
Việc nhà bán lẻ hàng hiệu am hiểu thị trường hơn một thập niên qua như Parkson (vào Việt Nam từ năm 2005) rút lui đang dấy lên lo ngại nguy cơ bão hòa thị trường cũng như thừa nguồn cung mặt bằng bán lẻ tại khu Nam Sài Gòn nói riêng cũng như cả TP nói chung.
Khu Nam Tp.HCM hiện đã có biểu hiện bão hòa mặt bằng bán lẻ.
Dữ liệu cập nhật đầu tháng 5 của Cushman & Wakefield Việt Nam cho hay, hiện Tp.HCM có 131 trung tâm bán lẻ, với 30 trung tâm tại khu vực trung tâm và 101 ở khu vực ngoài trung tâm. Toàn TP có tổng diện tích mặt bằng bán lẻ đạt xấp xỉ 1,13 triệu mét vuông sàn. Dự kiến sẽ có thêm 300.000m2 mặt bằng bán lẻ gia nhập thị trường trong năm 2016.
Tại Tp.HCM, quận 1 vẫn là nơi tập trung nhiều trung tâm mua sắm nhất, chiếm tỷ lệ gần 16% tổng nguồn cung. Mặt khác, sự lan tỏa nguồn cung có dấu hiệu hình thành làn sóng mạnh mẽ tiến ra ngoại thành. Trục đô thị phía Đông TP (quận 2, 9, Bình Thạnh, Thủ Đức) vượt trội về diện tích bán lẻ, đạt gần 240.000m2, còn ở phía Nam TP (chủ yếu là quận 7) đạt mức 145.000m2, trong khi phía Tây TP (quận 12, Bình Tân, Tân Phú) ở mức 135.000m2. Trong tháng 4 năm nay, các khu bán lẻ tập trung quy mô lớn mới gia nhập thị trường gồm Vincom Plaza Lê Văn Việt, Vincom Plaza Gò Vấp, Lotte Mart Gò Vấp... cung ứng thêm cho thị trường 84.000m2 sàn.
Theo đánh giá của Cushman & Wakefield, riêng tại khu Nam TP, quận 7 có nguồn cung mặt bằng bán lẻ cao vào khoảng 140.000m2, chỉ đứng sau quận 1. Nhưng mật độ diện tích bán lẻ trên đầu người chưa cao. Cư dân chủ yếu tập trung tại khu đô thị Phú Mỹ Hưng và khu dân cư lân cận như Nguyễn Thị Thập, Him Lam, Nguyễn Thị Thập, trong khi tại đây đã có đến 3 trung tâm thương mại lớn là Lotte Mart, Crescent Mall, SC Vivo City với tổng diện tích trên 100.000m2, chưa kể đến một số siêu thị và trung tâm mua sắm khác như BigC hay Coopmart. Vì vậy, số lượng trung tâm thương mại phát triển ở khu vực này đã đạt đến mức bão hòa ít nhất là trong vài ba năm tới.
Ông Huỳnh Phước Nghĩa - Chuyên gia tư vấn cấp cao thuộc Công ty Tư vấn Kinh doanh Hội nhập Toàn Cầu (GIBC) cho rằng, xét về số mét vuông sàn bán lẻ trên đầu người tại Sài Gòn vẫn còn dưới ngưỡng cảnh báo rất xa. Vậy nhưng, sự bão hòa về chất là có thật và đã diễn ra nhiều năm qua.
Theo chuyên gia này, nguồn cung mặt bằng bán lẻ xét về lượng chưa thể xem là dư thừa so với mật độ dân số của cả TP. Nhìn lại các thành phố lớn trong khu vực như Bangkok (8 triệu m2), Kuala Lampur (3 triệu m2), Singapore (4 triệu m2), nguồn cung mặt bằng bán lẻ TP HCM khá khiêm tốn, khoảng trên 1 triệu m2.
Ông Nghĩa cho biết: "Chẻ nhỏ theo địa bàn, khu Nam hiện đã có biểu hiện bão hòa mặt bằng bán lẻ. Trong khi đó, khu Đông vẫn chưa đáng lo ngại, tuy nhiên nếu cứ tiếp tục bùng nổ với tốc độ hiện nay thì viễn cảnh bội thực có thể xảy ra trong vài năm tới".
Còn xét về chất, sự bành trướng của ngành bán lẻ đã và đang diễn ra với tốc độ quá nhanh so với nhu cầu mua sắm và khả năng chi trả (thu nhập) của người dân.
Việc đóng cửa Parkson Paragon nên được nhìn dưới lăng kính chiến lược bán lẻ chưa phù hợp. Lý do đóng cửa do thất thế trong làn sóng bão hòa, đào thải của thị trường bán lẻ phía Nam TP là yếu tố bổ sung. Theo ông Nghĩa, có thể đưa ra 4 cảnh báo cho thị trường bán lẻ Tp.HCM từ câu chuyện của Parkson.
Một là, vị trí dự án trung tâm thương mại tác động mạnh mẽ đến các phân khúc tiêu dùng, 'sai một ly đi một dặm'. Tùy từng địa bàn, khu vực và đặc điểm cộng đồng dân cư mà chiến lược bán lẻ sẽ có sự phân cấp cao hay thấp. Chẳng hạn, với vị trí 'vàng', định vị khách hàng là giới nhà giàu, nhiều tiền. Định vị khách hàng của vị trí trung tâm thuộc tầng lớp trung lưu trở lên. Còn với vị trí rìa trung tâm sẽ mở rộng hướng phục vụ nhóm khách hàng bình dân.
Hai là, mô hình bán lẻ phụ thuộc vào tính hiệu quả, phổ biến của ngành nghề. Thực tế cho thấy, phân bổ tỷ trọng không hợp lý cũng có thể suy giảm lợi thế cạnh tranh. Đơn cử, các ngành mỹ phẩm, thời trang hàng hiệu đang bị cạnh tranh nhiều, rất khó có những bứt phá đột biến, đừng nên bố trí quá dày đặc. Ngành ẩm thực còn nhiều biên độ tăng trưởng có thể tăng sự hiện diện để tạo điểm nhấn thu hút khách đến mua sắm.
Ba là, bán lẻ truyền thống sẽ bị thay thế bởi các hình thức mua sắm mới hiện đại hơn. Sự tiện lợi, thoải mái, nhanh chóng, nhiều ưu đãi và dịch vụ hoàn hảo là con át chủ bài trong thế trận cạnh tranh khốc liệt của ngành bán lẻ. Theo đó, các mô hình bán lẻ ít sáng tạo sẽ bị thay thế bởi những trung tâm mua sắm tốt và hiện đại hơn. Ngay cả các trung tâm thương mại hiện đại cũng chịu sức ép từ các kênh bán lẻ trực tuyến.
Bốn là, ngành bán lẻ hiện đại thay đổi từng ngày theo quá trình đô thị hóa, xu hướng dịch chuyển ra những cực mới, có tốc độ đô thị hóa nhanh và mật độ dân cư dày đặc được ưa chuộng hơn là nhắm đến một cộng đồng cũ hoặc cố định. Đặc biệt, chiến lược vết dầu loang theo các trục đô thị mới để khai thác cộng đồng dân cư mới có thể sẽ là điểm nhấn của thị trường bán lẻ tại Tp.HCM trong năm 2016 và một vài năm tới.