Đường sắt tốc độ cao 350 km/h lại một lần nữa không được Bộ Kế hoạch Đầu tư và nhiều chuyên gia đồng thuận. Trước đó, dự án cũng từng bị Quốc hội bác vào năm 2010.
Dự án đường sắt cao tốc Hà Nội - TP.HCM được Chính phủ trình Quốc hội vào tháng 4/2010 vì cho rằng, nhu cầu hành khách trên hành lang vận tải Bắc - Nam đến năm 2030 sẽ tăng lên thành 534.000 người/ngày, vượt khả năng của các loại hình vận tải hiện tại. Do đó, sự xuất hiện của đường sắt cao tốc sẽ đáp ứng được yêu cầu chuyên chở khách sau năm 2035 và trong tương lai trên trục Bắc - Nam.
Đã có 4 phương án đầu tư được Chính phủ nghiên cứu và lựa chọn phương án nâng cấp tuyến đường sắt; cùng với đó, triển khai xây dựng mới tuyến đường sắt với tốc độ thiết kế 350 km/h, tốc độ khai thác 300 km/h để chuyên chở hành khách. Công nghệ động lực phân tán (EMU) với đại diện là tàu Shinkansen của Nhật Bản sẽ được lựa chọn.
Chiều dài toàn tuyến là 1.570km, nối từ ga Ngọc Hồi (Hà Nội) đến ga Bình Triệu (TP.HCM). Đường sắt trên cao sẽ nối các ga đầu cuối kết nối với hệ thống giao thông của 2 thành phố lớn. Tuyến đường sắt sẽ nằm trên các cầu cạn, cầu vượt sông và đường bộ, hầm... Theo đề xuất của Bộ Giao thông Vận tải, đến năm 2020 sẽ hoàn thành 2 đoạn từ Hà Nội - Vinh và từ Nha Trang - TP.HCM; đến năm 2030 sẽ hoàn tất đoạn Vinh - Đà Nẵng và năm 2035 sẽ hoàn thành toàn tuyến.
Hội đồng thẩm định nhà nước đã thông qua phương án nghiên cứu này; chủ trương cũng đã được các cấp thẩm quyền tán thành. Nhưng tại kỳ họp thứ 7 diễn ra vào tháng 6/2010, Quốc hội khóa XII đã không thông qua vì còn nhiều ý kiến tranh luận trái chiều, trong đó, có ý kiến cho rằng Việt Nam làm tàu cao tốc lúc này "giống như gia đình ở nhà tranh vách đất muốn mua biệt thự thay vì tích tiền xây nhà ngói".
Việc một dự án có ý nghĩa cấp quốc gia như đường sắt cao tốc bị Quốc hội bác là điều hiếm có trong lịch sử nghị trường.
|
Tàu tốc độ cao Bắc Nam được Bộ Giao thông Vận tải đề xuất sử dụng công nghệ giống tàu Shinkanshen ở Nhật Bản. Ảnh: Anh Duy. |
Dự án đường sắt tốc độ cao tiếp tục được Chính phủ nghiên cứu trong giai đoạn 2011-2013. Bộ Giao thông Vận tải tập trung nghiên cứu 2 đoạn tuyến Hà Nội - Vinh và TP.HCM - Nha Trang với quy mô đường đôi, khổ 1.435mm, tốc độ 200 km/h và 350 km/h, có sự hỗ trợ kỹ thuật của Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA). Trong bản chiến lược và quy hoạch phát triển giao thông vận tải đường sắt được Thủ tướng phê duyệt vào năm 2015 cũng có kết quả nghiên cứu này.
Theo đó, giai đoạn 2020-2030 sẽ thực hiện triển khai xây mới tuyến đường sắt tốc độ cao (trước mắt khai thác tốc độ chạy tàu từ 160 km/giờ đến dưới 200 km/giờ), đường đôi, khổ 1.435 mm, điện khí hóa, hạ tầng tuyến có thể đáp ứng khai thác tốc độ 350 km/giờ trong tương lai...
Giai đoạn 2017-2019, dự án đường sắt tốc độ cao được mở rộng hành lang pháp lý nghiên cứu khi Quốc hội phê duyệt Luật Đường sắt vào năm 2017, bởi, trong có một chương trong Luật đưa ra các mục tiêu, yêu cầu cụ thể về loại hình này.
Dự án đường sắt tốc độ cao tiếp tục được Bộ Giao thông Vận tải giao Liên danh tư vấn Tedi - Tricc - TediSouth phối hợp tư vấn quốc tế nghiên cứu lại vào năm 2017.
Có 3 kịch bản nghiên cứu được các đơn vị tư vấn đưa ra gồm: Thứ nhất là nâng cấp năng lực đường sắt hiện tại từ 50 km/h lên thành 70 km/h; Thứ 2 là nâng cấp tuyến đường sắt hiện tại khổ 1.000mm lên thành đường đôi khổ 1.435mm với tốc độ 200 km/h để khai thác cả tàu khách lẫn tàu hàng; Thứ 3 là nâng cấp tuyến đường sắt hiện nay và xây mới đường sắt tốc độ cao 350 km/h để khai thác mình tàu khách.
Theo đó, phương án 2 được đơn vị tư vấn cho rằng cần phải giải phóng diện tích mặt bằng lớn vì chạy qua nhiều khu đô thị, dân cư, còn phương án xây mới sẽ phải giải phóng mặt bằng ít hơn và có khả năng rút ngắn chiều dài tuyến để giảm chi phí.
|
Bộ Giao thông Vận tải đề xuất 2 giai đoạn đầu tư đường sắt tốc độ cao. |
Theo báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam được Bộ Giao thông Vận tải trình Thủ tướng hồi tháng 2/2019, phương án thiết kế tốc độ đường sắt được đề xuất 350 km/h với tổng vốn 58,7 tỷ USD, phân kỳ trước năm 2032 sẽ đầu tư xây dựng các đoạn Hà Nội - Vinh và Vinh - Nha Trang, đến năm 2050 sẽ hoàn thành các giai đoạn còn lại của công trình.
Để trình Quốc hội chấp thuận chủ trương đầu tư dự án vào kỳ họp cuối năm 2019, Bộ Giao thông Vận tải đã có cuộc trao đổi, thống nhất với 20 địa phương thuộc phạm vi nghiên cứu dự án, tổ chức 3 hội thảo lớn, 4 báo cáo chuyên đề nhằm lấy ý kiến phản biện từ phía các nhà khoa học, chuyên gia.
Song, tháng 6/2019, Bộ Kế hoạch Đầu tư trong báo cáo trình Thủ tướng đã nêu ý kiến các chuyên gia cho rằng, có nhiều rủi ro tiền ẩn gây tác động xấu đến nguồn vốn đầu tư dự án 58,7 tỷ USD. Đơn cử là sự đình hoãn của các dự án đầu tư khác để tập trung vốn cho đường sắt tốc độ cao trong thời gian ít nhất là 30 năm và lâu hơn nữa. Tiếp đến, tuyến đường sắt tốc độ cao chỉ phục vụ cho mục đích chở khách thì không giải quyết được tình hình vận tải hàng hóa để giảm chi phí vận tải.
Cùng với đó, Bộ Kế hoạch Đầu tư khẳng định, từ số liệu đánh giá của các nước đã triển khai mô hình này như Đức và Hà Lan, tốc độ chạy tàu 200 km/h với tổng mức đầu tư khoảng 26 tỷ USD là hiệu quả, thời gian lưu thông Bắc - Nam 8 giờ là hợp lý. Phương án này cũng phù hợp với chỉ đạo của Thủ tướng về chiến lược và quy hoạch đường sắt đến năm 2050.
Thủ tướng đã ra quyết định thành lập Hội đồng thẩm định Nhà nước vào ngày 11/7, mục đích thẩm định báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đường sắt tốc độ cao Bắc Nam được Bộ Giao thông Vận tải trình trước đó.