Hỏi: Sau khi vợ đầu của tôi qua đời, con cái đều đã trưởng thành và lập gia đình riêng, tôi có đi thêm bước nữa và tặng cho vợ mới cưới mảnh đất 100m2 ở vị trí rất đẹp.
Mảnh đất được tôi tặng cho vợ mới cưới sau khi chúng tôi đăng ký kết hôn mà không cho các con của mình biết. Nhưng đến thời gian gần đây tôi mới biết mình bị cô ấy lừa dối tình cảm, đứa con chung giữa chúng tôi lại không phải là máu mủ của mình. Tôi muốn hỏi giờ tôi có đòi lại được mảnh đất đã cho không? Nếu được, tôi cần phải làm những thủ tục gì?
Huy Lan
Luật sư tư vấn:
Theo như thông tin nêu trên, người hỏi không nêu rõ thửa đất đứng tên tài tài sản chung của cả hai vợ chồng (người vợ quá cố) hay là tài sản riêng của bạn, do đó Luật sư đã đưa ra 2 trường hợp như sau:
|
Có đòi được đất đã tặng vợ hay không? |
Thứ nhất, mảnh đất là tài sản chung của vợ chồng bạn, được hình thành trong thời kỳ hôn nhân (dù bạn chỉ đứng tên một mình). Đối với trường hợp này, phần di sản của người vợ quá cố sẽ được giải quyết theo đúng quy định của pháp luật về thừa kế. Hành vi tự ý định đoạt toàn bộ thửa đất khi chưa thực hiện thủ tục khai nhận thừa kế là không đúng với quy định của pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất là bố, mẹ và con của người vợ đầu. Do đó, một trong những người thuộc hàng thừa kế này hoàn toàn có quyền khởi kiện ra tòa để yêu cầu tuyên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hủy quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho người vợ thứ hai.
Thứ hai, trường hợp thửa đất là tài sản riêng của bạn do đã có từ trước thời kỳ hôn nhân với người vợ đầu; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho bạn theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Lúc này, bạn hoàn toàn có quyền định đoạt tài sản của mình mà không phải khai nhận thừa kế cũng không cần có sự đồng ý từ phía các con.
Theo quy định của pháp luật, về việc bạn cho rằng mình bị lừa dối, sẽ được xử lý như sau:
Quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 yêu cầu chủ thể trong giao dịch dân sự phải hoàn toàn tự nguyện thì giao dịch mới có hiệu lực về mặt pháp luật. Vậy nên, Tòa án sẽ tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu nếu một bên tham gia giao dịch dân sự bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép.
Khi chính thức tuyên bố vô hiệu giao dịch dân sự sẽ không làm ảnh hưởng, phát sinh, thay đổi, hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên từ thời điểm xác lập giao dịch. Các bên sẽ có trách nhiệm khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả những gì đã nhận cho nhau khi tòa tuyên giao dịch dân sự vô hiệu. Nếu không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì sẽ hoàn trả bằng tiền, tương đương với giá trị của hiện vật.
Đối với trường hợp bạn bị lừa dối vì đứa trẻ không phải là máu mủ của mình, nó sẽ có liên quan trực tiếp đến giao dịch chuyển nhượng hay không (như hai bên thỏa thuận bạn sẽ chuyển nhượng, tặng cho cô ấy thửa đất đó nếu có con chung) sẽ do tòa đánh giá, xét xử. Tuy nhiên, nếu việc lừa dối trên không liên quan trực tiếp đến quá trình chuyển nhượng thì xét về nguyên tắc đây không phải là căn cứ để tòa tuyên giao dịch vô hiệu và bạn không thể đòi lại mảnh đất đã đó được.
Luật sư Vũ Tiến Vinh
Công ty luật Bảo An, Hà Nội